Năng lượng tái tạo là loại năng lượng được sản xuất từ các nguồn thiên nhiên có khả năng tái tạo liên tục như gió, nước, mặt trời, sinh khối. Năng lượng tái tạo có nhiều ưu điểm như: giảm phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch; góp phần bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người dân; đa dạng hóa cấu trúc ngành năng lượng.
Trong số các loại năng lượng tái tạo, điện mặt trời là loại có tiềm năng phát triển cao nhất ở Việt Nam do điều kiện khí hậu và địa lý thuận lợi. Theo Bộ Công Thương, Việt Nam có khoảng 1.600-2.700 giờ nắng mỗi năm và bức xạ mặt trời khoảng 4-5 kWh/m2/ngày. Đây là những con số rất cao so với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới.
Để khuyến khích phát triển điện mặt trời, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các quyết định về cơ chế FIT (Feed-in Tariff), tức biểu giá mua bán điện ưu đãi cho các dự án năng lượng tái tạo. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về hai quyết định liên quan đến FIT cho điện mặt trời là QĐ 13/2020/QĐ-TTg (FIT2) và Dự thảo /2021/QĐ-TTg (FIT3), cũng như các cơ hội và thách thức trong việc triển khai các dự án điện mặt trời theo cơ chế FIT.
Giải thích về cơ chế FIT và các quyết định liên quan của Chính phủ
FIT là từ được viết tắt của “Feed-in Tariff”, thuật ngữ này thường được dùng để chỉ biểu giá điện hỗ trợ. Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), FIT là “giá được thanh toán cho sản xuất điện từ nguồn tái tạo hoặc hiệu quả cao”. FIT được thiết kế để khuyến khích đầu tư vào các dự án sản xuất điện từ các nguồn tái tạo bằng cách cam kết mua toàn bộ hoặc một phần sản lượng điện của dự án với giá cao hơn so với giá thị trường.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành QĐ 11/2017/QĐ-TTg vào ngày 11/4/2017 về “Cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam”. Theo quyết định này, các dự án điện mặt trời nối lưới được hưởng biểu giá FIT là 9.35 cent/kWh (khoảng 2.086 đồng/kWh) trong thời hạn 20 năm kể từ ngày vận hành thương mại. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 1/6/2017 đến ngày 30/6/2019.
QĐ 13/2020/QĐ-TTg vào ngày 6/4/2020 về “Cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời ở Việt Nam” (FIT2). Theo quyết định này, thời gian áp dụng cơ chế FIT mới được tính từ ngày 1/7/2019 đến ngày 31/12/2020 đối với các dự án điện mặt trời nối lưới và mái nhà đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư trước ngày 23/11/2019 và có ngày vận hành thương mại trong giai đoạn từ ngày 1/7/2019 đến ngày 31/12/2020. Các dự án điện mặt trời nằm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận được áp dụng cơ chế FIT2 cho tới ngày 31/12/2020 và giữ nguyên biểu giá FIT là 9.35 cent/kWh. Biểu giá FIT2 cho các dự án điện mặt trời nối lưới và mái nhà được xác định theo khu vực và loại hình như sau:
Khu vực | ĐMT nối lưới (Cent/kWh) | ĐMT mái nhà (Cent/kWh) |
I | 7.09 | 8.38 |
II | 7.16 | 8.47 |
III | 7.69 | 9.35 |
IV | 8.38 | 10.26 |
Dự thảo /2021/QĐ-TTg về “Cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tại Việt Nam” (FIT3). Dự thảo này đã được Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét vào tháng 03/2021 nhưng vẫn chưa được thông qua. Dự thảo này dành riêng cho các dự án điện mặt trời mái nhà và khuyến khích tự tiêu dùng điện mặt trời tại vị trí và không đẩy ra lưới điện. Biểu giá FIT3 cho các dự án điện mặt trời mái nhà được xác định theo công suất và loại hình như sau:
Công suất (kW) | ĐMTMN tự tiêu (cent/kWh) | ĐMTMN bán ra lưới (cent/kWh) |
<10 | 6.84 | 5.35 |
10-100 | 6.38 | 4.97 |
>100 | 5.85 | 4.56 |
So sánh và đánh giá các biểu giá FIT2 và FIT3
Theo ông Hoàng Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (EREA), biểu giá FIT3 sẽ thấp hơn biểu giá FIT2 khoảng 30% để khuyến khích tự tiêu dùng điện mặt trời tại vị trí và không đẩy ra lưới điện. Điều này sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho lưới điện, đồng thời tạo ra lợi ích kinh tế cho người dân khi so sánh chi phí đầu tư cố định với giá điện tăng hàng năm của EVN.
Tuy nhiên, việc giảm biểu giá FIT3 cũng có thể gây ra những khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc quyết định đầu tư vào các dự án điện mặt trời mái nhà. Theo ông Nguyễn Văn Thanh, Giám đốc Công ty TNHH Năng Lượng Mô Phỏng Việt Nam (VSE), biểu giá FIT3 là quá thấp so với chi phí sản xuất điện mặt trời hiện nay, khiến cho thời gian hoàn vốn kéo dài từ 8-9 năm lên khoảng 12-13 năm.
Ngoài ra, việc áp dụng biểu giá FIT3 chỉ cho các dự án điện mặt trời mái nhà cũng có thể làm hạn chế quy mô phát triển của ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Theo ông Nguyễn Đức Cường, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng tái tạo Việt Nam (VREA), các dự án điện mặt trời nối lưới, công viên điện mặt trời và điện mặt trời nổi có thể đóng góp nhiều hơn cho việc cân bằng nguồn cung và cầu điện quốc gia. Do đó, ông đề xuất Chính phủ nên áp dụng cơ chế đấu thầu cho các loại hình dự án này để tìm ra giá điện phù hợp với thị trường.
Phân tích các cơ hội và thách thức trong việc triển khai các dự án điện mặt trời theo cơ chế FIT
Cơ hội: Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển điện mặt trời nhờ có nguồn nắng giàu và rộng khắp. Điện mặt trời không chỉ giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch mà còn góp phần bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây là một trong những mục tiêu chiến lược của Chính phủ Việt Nam trong Chiến lược Quốc gia về Biến đổi Khí Hậu và Chiến lược Phát triển Năng Lượng Quốc Gia. Ngoài ra, điện mặt trời cũng mang lại lợi ích kinh tế cho người dân khi tiết kiệm chi phí tiền điện hàng tháng và tạo ra thu nhập từ việc bán ra lưới. Đối với các doanh nghiệp, việc đầu tư vào điện mặt trời mái nhà cũng có thể nâng cao uy tín và giá trị thương hiệu khi thể hiện sự quan tâm đến vấn đề xanh – sạch – đẹp.
Thách thức: Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng việc triển khai các dự án điện mặt trời theo cơ chế FIT vẫn gặp không ít khó khăn. Một trong những khó khăn lớn nhất là chi phí đầu tư cao so với khả năng tài chính của người dân và doanh nghiệp. Theo Bộ Công Thương, chi phí xây dựng 1 MW công suất điện mặt trời vào khoảng 1 triệu USD (khoảng 23 tỷ đồng).
Do đó, việc hỗ trợ tài chính từ Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế là rất cần thiết để kích thích sự quan tâm của các nhà đầu tư. Một khó khăn khác là thiếu hụt nguồn cung thiết bị cho sản xuất điện mặt trời. Hiện nay, Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các thiết bị như tấm pin, inverter, giàn khung từ các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan. Điều này không chỉ làm tăng chi phí đầu tư mà còn gây ra rủi ro về chất lượng và an toàn.
Do đó, việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất điện mặt trời là rất cấp thiết để giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tạo ra giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng. Một thách thức nữa là hạn chế về hạ tầng lưới điện để tiếp nhận và phân phối điện từ các nguồn tái tạo.
Theo Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC), hiện nay lưới điện ở các khu vực có tiềm năng phát triển điện mặt trời cao như Tây Nguyên, Nam Trung Bộ đã quá tải và không đảm bảo an toàn vận hành. Do đó, việc nâng cấp và mở rộng lưới điện là một trong những yếu tố then chốt để phát triển bền vững ngành năng lượng tái tạo.
Kết luận
Điện mặt trời là một trong những nguồn năng lượng tái tạo có tiềm năng phát triển cao nhất ở Việt Nam. Để khuyến khích phát triển điện mặt trời, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các quyết định về cơ chế FIT cho các dự án điện mặt trời.
Tuy nhiên, việc triển khai các dự án điện mặt trời theo cơ chế FIT vẫn gặp không ít thách thức như chi phí đầu tư cao, thiếu hụt nguồn cung thiết bị, hạn chế về hạ tầng lưới điện. Để khắc phục những thách thức này và tận dụng cơ hội từ điện mặt trời, chúng ta cần có các giải pháp như hoàn thiện chính sách và pháp luật; xây dựng kế hoạch quy hoạch; nâng cao nhận thức và hỗ trợ người dân; hợp tác với các tổ chức quốc tế; ứng dụng công nghệ mới.
Bằng cách đó, chúng ta có thể góp phần xây dựng một ngành năng lượng tái tạo bền vững và hiệu quả cho Việt Nam